GIÁO DỤC HƯỚNG NGHIỆP CHO HỌC SINH TRUNG HỌC PHỔ THÔNG
(Dùng cho học sinh lớp 10, 11 năm học 2019 – 2020)
Giáo dục hướng nghiệp trong nhà trường chủ yếu tập trung giúp các em có sự lựa chọn, chuẩn bị một cách khoa học để đạt được ước muốn nghề nghiệp sau khi rời nghế nhà trường.
Để đạt được mục tiêu đó, mỗi học sinh phải tự tìm câu trả lời cho ba câu hỏi lớn sau đây:
Câu hỏi 1: Em thích nghề gì?
Câu hỏi này thể hiện ước muốn nghề nghiệp tương lai. Ước muốn này xuất phát từ nhiều nguyên nhân. Chẳng hạn, như truyền thống nghề nghiệp gia đình về nghề đó hoặc do sự hiểu biết của bản thân về nghề nghiệp và muốn được lao động trong nghề hoặc do sự tư vấn của người khác hoặc do phim ảnh liên quan đến nghề, … Dù với lý do nào thì việc xác định được một nghề yêu thích là một điều rất có ý nghĩa. Có một thực tế là, những người yêu thích, đam mê một nghề nghiệp nào đó thường cảm thấy hạnh phúc trong hoạt động nghề nghiệp của mình và thường thành công trong chính nghề nghiệp ấy. Vì vậy, mỗi học sinh cần xác định cho mình một nghề mà mình yêu thích. Tuy nhiên, để đạt được ước muốn nghề mà mình yêu thích, mỗi học sinh cần phải trả lời cho được câu hỏi 2 dưới đây.
Câu hỏi 2: Em có đáp ứng được những đòi hỏi của nghề hay không?
Để trả lời được câu hỏi này, học sinh phải trả lời được 2 nội dung quan trọng, đó là:
-Em hiểu gì về nghề mình thích: Điều kiện để được học tập về nghề đó, trình độ đào tạo, thời gian đào tạo? Các môn thi vào để được học nghề? Điều kiện làm việc của nghề? CHế độ lao động của nghề, … ?
-Em có đủ điều kiện về phẩm chất, sức khỏe, tâm sinh lý, kỹ năng, kỹ xảo phù hợp để tham gia lao động nghề hay không?
Trong thực tiễn, nhiều nghề đòi hỏi những năng lực/đặc điểm đực biệt không phải ai thích mà có được. Ví dụ để trở thành ca sĩ thì phải có chất giọng hát hay. Để trở thành phi công phải có hình thể và sức khỏe tốt, … những điều này không phải ai cũng có.
Câu hỏi 3: Nhu cầu của thị trường lao động đối với nghề đó ra sao?
Với sự phát triển của khoa học và công nghệ, nhiều ngành nghề có thể bị mất đi, khi đó nhu cầu về nghề sẽ giảm thậm chí thị trường không có nhu cầu. Và ngược lại, có những nghề mới được hình thành, nhu cầu tăng dần. Do đó, học sinh nhất thiết phải xem xét nhu cầu của thị trường lao động đối với nghề mình yêu thích để mình có cơ hội thực hiện ước mơ nghề nghiệp.
Tài liệu học tập
I.Hướng nghiệp là gì?
Theo UNESCO:
“hướng nghiệp là một quá trình cung cấp cho người học những thông tin về bản thân, về thị trường lao động và định hướng cho người học có các quyết định đúng đối với sự lựa chọn nghề nghiệp”.
Ở tầm vĩ mô, hướng nghiệp là hệ thống biện pháp tác động của Nhà nước, tổ chức hoạt động của nhiều cơ quan khác nhau trong xã hội, giúp cho con người lựa chọn và xác định được vị trí nghề nghiệp của mình trong cuộc sống.
Theo tài liệu bồi dưỡng giáo viên thực hiện chương trình sách Giáo dục hướng nghiệp lớp 10 thì trong trường phổ thông:
“hướng nghiệp được coi như là công việc của tập thể giáo viên, tập thể sư phạm có mục đích giáo dục học sinh trong việc chọn nghề, giúp các em tự quyết định nghề nghiệp tương lai trên cơ sở phân tích khoa học về năng lực, hứng thú của bản thân và nhu cầu nhân lực của các ngành sản xuất trong xã hội”.
II.Giáo dục hướng nghiệp là gì?
Gần đây, khái niệm Giáo dục hướng nghiệp thường được sử dụng trong các tài liệu tập huấn nhằm nhấn mạnh hơn công tác hướng nghiệp trong nhà trường phổ thông. Có thể hiểu rằng giáo dục hướng nghiệp là một quá trình thống nhất, gắn bó chặt chẽ với nhau, diễn ra trong toàn bộ quá trình phát triển nghề nghiệp của con người. Giáo dục hướng nghiệp nhằm định hướng nghề nghiệp cho học sinh. Cụ thể, Giáo dục học cho rằng Giáo dục hướng nghiệp là các tác động có hệ thống giúp thế hệ trẻ có cơ sở khoa học trong việc chọn nghề sao cho phù hợp với những yêu cầu của sự phân công lao động xã hội, có tính đến hứng thú và năng lực của từng cá nhân, sao cho mỗi học sinh tìm thấy niềm vui, hạnh phúc khi cống hiến sức mình cho sự phát triển chung của cộng đồng, của xã hội. Bên cạnh đó, công tác hướng nghiệp trong nhà trường phổ thông, hay nói cách khác, Giáo dục hướng nghiệp trong nhà trường phổ thông cũng nhằm giáo dục học sinh rèn luyện thái độ yêu lao động và kỹ năng tự định hướng nghề nghiệp cho bản thân sau khi ra khỏi môi trường học đường.
Theo Đặng Danh Ánh (1982), giáo dục hướng nghiệp nói chung có 4 giai đoạn liên tiếp nhau: Định hướng nghề, Tư vấn nghề, Tuyển chọn nghề và Thích ứng nghề. Hai giai đoạn đầu diễn ra ở nhà trường phổ thông, hai giai đoạn sau diễn ra ở các cơ sở giáo dục nghề nghiệp, các trường đại học, cao đẳng, trung cấp chuyên nghiệp, các cơ sở sản xuất kinh doanh, sử dụng lao động.
Thật vậy, có thể cho rằng Giáo dục hướng nghiệp ở trường phổ thông là bước khởi đầu quan trọng trong quá trình phát triển nhân lực. Trên bình diện cá nhân, hướng nghiệp là hệ thống các giải pháp dựa trên cơ sở tâm lý học, sinh lý học, giáo dục học, xã hội học và nhiều khoa học khác để giúp học sinh chọn nghề phù hợp với nhu cầu xã hội, đồng thời thỏa mãn tối đa nguyện vọng, thích hợp với năng lực, sở trường và điều kiện tâm sinh lý cá nhân để họ có thể phát triển tới đỉnh cao trong nghề nghiệp, cống hiến được nhiều cho xã hội cũng như tạo lập được cuộc sống tốt đẹp cho bản thân. Trên bình diện vĩ mô xã hội, hướng nghiệp nhằm góp phần phân bố hợp lý và sử dụng có hiệu quả nhất nguồn nhân lực, vốn quý của đất nước để phục vụ cho sự phát triển kinh tế-xã hội của đất nước.
III.Mục đích của giáo dục hướng nghiệp
Giáo dục hướng nghiệp có mục đích chung là hình thành khả năng tự chủ trong việc lựa chọn nghề của học sinh trên cơ sở của sự phù hợp giữa năng lực, hứng thú, sở thích cá nhân với nhu cầu sử dụng lao động trong các lĩnh vực của xã hội. Điều này góp phần nâng cao hiệu quả lao động xã hội và làm tốt công tác phân luồng học sinh sau mỗi bậc học.
Riêng đối với bậc trung học phổ thông, giáo dục hướng nghiệp nhằm mục đích giúp cho học sinh có được ý thức như là chủ thể trong sự lựa chọn nghề nghiệp, có định hướng khi chọn nghề dựa trên cơ sở hiểu biết khoa học về nghề nghiệp, về nhu cầu thị trường lao động cũng như năng lực, sở trường, sức khỏe của bản thân.
Cụ thể, mục tiêu đối với học sinh trung học phổ thông (lớp 10, 11, 12) sau khi tham gia các hoạt động giáo dục hướng nghiệp là [1]:
Về kiến thức: hiểu được ý nghĩa, tầm quan trọng của việc lựa chọn nghề nghiệp tương lai; biết cách tìm hiểu bản thân, tìm hiểu nghề nghiệp, thông tin thị trường lao động và xây dựng kế hoạch nghề nghiệp cho bản thân; biết được một số thông tin cơ bản về định hướng phát triển kinh tế – xã hội của địa phương, đất nước và khu vực.
Về kỹ năng: tự đánh giá được sở thích, khả năng, cá tính và giá trị nghề nghiệp của bản thân và điều kiện gia đình trong việc định hướng nghề nghiệp; tìm kiếm được thông tin nghề, thông tin thị trường tuyển dụng lao động và các cơ sở đào tạo cần thiết; lựa chọn và xây dựng kế hoạch nghề nghiệp cho bản thân.
Về thái độ: chủ động, tích cực tham gia các hoạt động trong và ngoài nhà trường để tăng thêm nhận thức về bản thân, nhận thức nghề nghiệp; tự tin thực hiện kế hoạch nghề nghiệp của bản thân sau khi tốt nghiệp trung học phổ thông.
Nhiệm vụ của giáo dục hướng nghiệp
Theo sách “Giáo dục hướng nghiệp ở Việt Nam” của tác giả Đặng Danh Ánh [2, tr.135] thì giáo dục hướng nghiệp ở trường phổ thông có 5 nhiệm vụ sau đây:
1/ Tổ chức cho học sinh làm quen với các ngành nghề của nền kinh tế, đặc biệt với các nghề phổ biến;
2/ Tổ chức các hoạt động giáo dục nghề cho học sinh nhằm giúp các em có ý thức chọn nghề;
3/ Tiến hành tư vấn chọn nghề cho học sinh;
4/ Giúp học sinh tìm hiểu nhân cách của mình để giúp các em chọn nghề phù hợp;
5/ Giáo dục học sinh có thái độ lao động đúng với mọi ngành nghề.
IV.Ý nghĩa của giáo dục hướng nghiệp
Theo sách “Một số vấn đề về hướng nghiệp cho học sinh phổ thông” của nhóm tác giả Nguyễn Văn Lê, Hà Thế Truyền, Bùi Văn Quân thì giáo dục hướng nghiệp có 4 ý nghĩa sau [3, tr.40-42]:
Ý nghĩa giáo dục: nhờ giáo dục hướng nghiệp, nhà trường góp phần thực hiện mục tiêu giáo dục toàn diện học sinh, trong đó có nội dung giáo dục cho học sinh có hứng thú và động cơ nghề nghiệp đúng đắn, có lý tưởng nghề nghiệp trong sáng, có thái độ đúng đắn đối với lao động. Do đó, hướng nghiệp chính là một bộ phận cấu thành giáo dục. Chính sự làm quen và tiếp xúc với nghề, quá trình tiếp cận kỹ thuật và công nghệ sản xuất, sự “thử sức” với lao động nghề nghiệp… do giáo dục hướng nghiệp mang đến còn giúp học sinh rèn luyện sự sáng tạo, khéo tay, tư duy kỹ thuật, tư duy kinh tế.
Ý nghĩa kinh tế: giáo dục hướng nghiệp giúp đẩy mạnh phân luồng học sinh, phân luồng nhân lực của xã hội, giúp đất nước sử dụng hợp lý tiềm năng lao động trẻ tuổi. Đây chính là ý nghĩa rất quan trọng đối với sự phát triển kinh tế, nâng cao năng suất lao động trong xã hội. Mỗi năm, có không ít học sinh sau trung học phổ thông không thể học lên bậc cao hơn và tham gia trực tiếp vào thị trường lao động, nếu lực lượng này được tổ chức, hướng dẫn đi vào thị trường lao động một cách khoa học và đáp ứng được yêu cầu của phân công lao động xã hội thì chắc chắn sẽ góp phần nâng cao năng suất lao động xã hội, chất lượng nguồn nhân lực cũng được nâng cao.
Ý nghĩa chính trị: giáo dục hướng nghiệp có vai trò quan trọng khi thực hiện chiến lược giáo dục, chiến lược con người và sự nghiệp xây dựng, bảo vệ tổ quốc xã hội chủ nghĩa. Nếu công tác này được thực hiện nghiêm túc, hiệu quả sẽ góp phần tích cực vào việc phân luồng học sinh tốt nghiệp các cấp, phân hóa học sinh có năng lực, phát hiện học sinh có năng khiếu…, từ đó góp phần nâng cao dân trí, đào tạo nhân lực, bồi dưỡng nhân tài một cách thiết thực, theo đúng định hướng của chiến lược xây dựng kinh tế xã hội, chiến lược phát triển nhân lực từng giai đoạn chính trị cụ thể.
Ý nghĩa xã hội: Nếu làm tốt giáo dục hướng nghiệp, thế hệ trẻ sẽ được định hướng vào cuộc sống lao động, sinh hoạt hằng ngày của thanh thiếu niên sẽ ổn định, từ đó xã hội cũng ổn định hơn. Nói cách khác, thanh thiếu niên cần được giúp đỡ để tìm được nghề phù hợp với mình và nhu cầu của xã hội, từ đó, hăng say làm việc và cống hiến, tránh để xảy ra tình trạng “vô công rỗi nghề”, “nhàn cư vi bất thiện”, gây bất ổn trong xã hội.
Các con đường hướng nghiệp
Để chuyển tải được hết các nội dung trên, nhà trường phổ thông thực hiện giáo dục hướng nghiệp thông qua bốn con đường chủ yếu sau đây [4]:
Hướng nghiệp qua hoạt động dạy học các môn văn hóa. Thật vậy, môn học nào cũng có khả năng hướng nghiệp của nó. Điều quan trọng là người thầy phải biết kết nối những nội dung giảng dạy với một số nghề cụ thể nào đó nhằm giúp học sinh có cái nhìn tổng quát về nghề, ươm mầm đam mê nghề nghiệp cho học sinh. Quá trình giảng dạy các môn văn hóa cũng là quá trình phát hiện và bồi dưỡng năng khiếu, dẫn dắt sự phát triển năng khiếu của học sinh, từ đó, người thầy có thể định hướng cho học sinh có năng khiếu, cho các em những lời khuyên chọn nghề.
Hướng nghiệp qua hoạt động dạy nghề phổ thông và dạy môn công nghệ. Có thể nói môn công nghệ và dạy nghề phổ thông có khả năng hướng nghiệp rất lớn. Mặc dù học sinh chưa đi sâu vào kỹ thuật nghề nghiệp nhưng qua việc tìm hiểu một số ngành nghề chủ yếu (công nghiệp, nông nghiệp, dịch vụ), học sinh có điều kiện hiểu về những ngành nghề trong xã hội. Đặc biệt, với hoạt động dạy nghề phổ thông (tin học, điện dân dụng, chụp ảnh, nấu ăn,…), học sinh có điều kiện được thực hành một cách nghiêm túc, đầy đủ, được thử sức mình với hoạt động kỹ thuật cụ thể, nhờ đó, các em phát hiện và đánh giá đúng hơn năng lực kỹ thuật của bản thân.
Hướng nghiệp qua các buổi sinh hoạt hướng nghiệp. Có nhiều cách tổ chức sinh hoạt hướng nghiệp như giao lưu với người thành đạt trong nghề; tìm hiểu các ngành nghề đang cần nhân lực, nhất là những ngành nghề nằm trong dự báo nhu cầu nhân lực của địa phương; tìm hiểu hệ thống các cơ sở đào tạo; tổ chức các buổi tọa đàm, diễn đàn về nghề nghiệp tương lai… tất cả đều nhằm mục đích giáo dục thái độ yêu lao động cũng như cung cấp cho học sinh một cái nhìn toàn cảnh về các ngành nghề trong xã hội, các “luồng” mà học sinh có thể đi tiếp sau khi tốt nghiệp cũng như nhu cầu về nhân lực của quốc gia và địa phương.
Hướng nghiệp qua các hoạt động tham quan ngoại khóa. Các hoạt động này có khả năng hướng nghiệp to lớn bởi chúng thúc đẩy sự phân hóa năng lực, sự phát triển năng khiếu diễn ra càng mạnh mẽ, nói cách khác, sự nảy sinh hứng thú, thiên hướng, năng lực của học sinh thường xuất hiện trong các hoạt động ngoại khóa.
Với một cách diễn đạt cụ thể hơn, 4 con đường giáo dục hướng nghiệp nêu trên được chia nhỏ ra thành 10 con đường giáo dục hướng nghiệp chi tiết sau đây:
1/ Hướng nghiệp qua dạy chương trình hướng nghiệp chính khóa;
2/ Hướng nghiệp qua dạy các môn khoa học cơ bản;
3/ Hướng nghiệp qua dạy môn công nghệ;
4/ Hướng nghiệp qua dạy nghề phổ thông;
5/ Hướng nghiệp qua tham quan cơ sở sản xuất;
6/ Hướng nghiệp qua việc mời các chuyên gia nói chuyện;
7/ Hướng nghiệp qua hội thảo, tranh luận theo chủ đề;
8/ Hướng nghiệp qua tham quan các cơ sở đào tạo nghề;
9/ Hướng nghiệp qua tư vấn hướng nghiệp;
10/ Hướng nghiệp qua các hoạt động ngoại khóa khác.
V.Phân loại nghề
Theo Sách giáo viên "GIÁO DỤC HƯỚNG NGHIỆP" lớp 9, Phạm Tất Dong chủ biên, Nhà xuất bản Giáo Dục, năm 2005. Từ trang 24 đến trang 29 trình bày về phân loại nghề như sau:
5.1. Phân loại nghề theo hình thức lao động (Lĩnh vực lao động)
Theo cách phân loại này thì có 2 lĩnh vực khác nhau:
* Lĩnh vực quản lý, lãnh đạo
* Lĩnh vực sản xuất
► Lĩnh vực quản lý, lãnh đạo có 10 nhóm nghề:
- Lãnh đạo các cơ quan Đảng, Nhà Nước, đoàn thể và các bộ phận trong các cơ quan đó.
- Lãnh đạo doanh nghiệp
- Cán bộ kinh tế, kế hoạch tài chính, thống kê, kế toán...
- Cán bộ kỹ thuật công nghiệp
- Cán bộ kỹ thuật nông, lâm nghiệp
- Cán bộ khoa học giáo dục
- Cán bộ văn hóa nghệ thuật
- Cán bộ y tế
- Cán bộ luật pháp, kiểm sát
- Thư ký các cơ quan và một số nghề lao động trí óc khác
► Lĩnh vực sản xuất có 23 nhóm nghề:
- Làm việc trên các thiết bị động lực
- Khai thác mỏ, dầu, than, hơi đốt, chê biến than (không kể luyện cốc).
- Luyện kim, đúc, luyện cốc
- Chế tạo máy, gia công kim loại, kỹ thuật điện và điện tử, vô tuyến điện
- Công nghiệp hóa chất
- Sản xuất giấy và sản phẩm bằng giấy, bìa
- Sản xuất vật liệu xây dựng, bê tông, sành sứ, gốm, thủy tinh
- Khai thác và chế biến lâm sản
- In
- Dệt
- May mặc
- Công nghiệp da, da lông, da giả
- Công nghiệp lương thực và thực phẩm
- Xây dựng
- Nông nghiệp
- Lâm nghiệp
- Nuôi và đánh bắt thủy sản
- Vận tải
- Bưu chính viễn thông
- Điều khiển máy nâng, chuyển
- Thương nghiệp, cung ứng vật tư, phục vụ ăn uống.
- Phục vụ công cộng và sinh hoạt
- Các nghề sản xuất khác
5.2. Phân loại nghề theo đào tạo
Theo cách phân loại này, các nghề được chia thành 2 loại:
* Nghề được đào tạo
* Nghề không được đào tạo
Khi trình độ sản xuất và khoa học, công nghệ được nâng cao, dân cư được phân bố đồng đều trong cả nước thì số nghề cần có sự đào tạo qua các trường lớp sẽ tăng lên. Ngược lại quốc gia nào có trình độ dân trí thấp, trình độ sản xuất, khoa học và công nghệ chậm phát triển, dân cư phân tán thì tỉ lệ nghề không qua đào tạo rất cao.
Nước ta đã có danh mục các nghề được đào tạo, còn các nghề không được đào tạo rất khó thống kê. Bên cạnh đó còn có rất nhiều nghề được truyền trong các dòng họ hoặc gia đình, những nghề này rất đa dạng và trong nhiều trường hợp được giữ bí mật được gọi là nghề gia truyền. Do vậy, những nghề này được đào tạo trong gia đình và cũng thường chỉ liên quan đến người được chọn để nối tiếp nghề của cha ông.
5.3. Phân loại nghề theo yêu cầu của nghề đối với người lao động
►1/ Những nghề thuộc lĩnh vực hành chính
Công việc trong nghề hành chính mang tính chất sắp đặt, bố trí, trình bày, phân loại, lưu trữ... các loại hồ sơ, giấy tờ. Cán bộ nhân viên trong những nghề này thường phải hệ thống hóa, phân loại, xử lý các tài liệu, công văn, sổ sách. Những chuyên môn thường gặp là nhân viên văn phòng, thư ký, kế toán, thông kê, lưu trữ, kiểm tra, chấm công...
Nghề hành chính đòi hỏi con người đức tính bình tĩnh, thận trọng, chính chắn, chu đáo. Mọi thói quen, tác phong xấu như tính cẩu thả, bừa bãi, thiếu ngăn nắp, đại khái, qua loa, thờ ơ, lãnh đạm... đều không phù hợp với công việc hành chính.
Người làm nghề hành chính phải có tinh thần kỷ luật trong việc chấp hành những công việc mang tính sự vụ, biết giữ trật tự, nghiêm túc khi làm việc. Ngoài ra họ lại phải am hiểu cách phân loại tài liệu, cách sắp sếp tài liệu ngăn nắp, có năng lực nhận xét, phê phán cách chấp hành thủ tục giấy tờ, cách soạn thảo văn bản... thiếu cơ sở khoa học. Bản thân họ cũng cần thành thạo công việc viết văn bản.
► 2/ Những nghề thuộc lĩnh vực tiếp xúc với con người
Ở đây, ta có thể kể đến những nhân viên bán hàng, những thầy thuốc, thầy giáo, những người phục vụ khách sạn, những cán bộ tổ chức v.v… Những người này luôn phải có thái độ ứng xử hòa nhã, chân thành, tế nhị, tinh ý, mềm mỏng, linh hoạt, ân cần, cởi mở…
Thái độ và hành vi đối xử lạnh nhạt, thờ ơ, thiếu thông cảm, thiếu nâng đỡ, vụ lợi v.v… đều xa lại với các công việc nói trên.
►3/ Những nghề thợ (công nhân)
Tính chất nội dung lao động của nghề thợ rất đa dạng. Có những người thợ làm việc trong các ngành công nghiệp (thợ dệt, thợ tiện, thợ phay, thợ nguội, thợ chỉnh công cụ …), trong các ngành tiểu thủ công nghiệp (thợ thêu, thợ làm mây tre đan, sơn mài…), trong lĩnh vực dịch vụ (cắt tóc, sửa chữa đồ dùng gia đình…) và rất nhiều loại thợ khác như lái tàu hỏa, ô tô, xe điện, in ấn, xây dựng, khai thác tài nguyên…
Nghề thợ đại diện cho nền sản xuất công nghiệp. Tác phong công nghiệp, tư duy kỹ thuật, trí nhớ, tưởng tượng không gian, khéo tay… là những yếu tố tâm lý cơ bản không thể thiếu được ở người thợ.
Nghề thợ đang có sự chuyển biến về cấu trúc: những nghề lao động chân tay sẽ ngày càng giảm, lao động trí tuệ sẽ tăng lên. Ở những nước công nghiệp hiện nay như Mỹ, Pháp, Anh… số công nhân “cổ trắng” (công nhân trí thức) đã đông hơn công nhân “cổ xanh” (công nhân làm những công việc tay chân nặng nhọc).
►4/ Những nghề trong lĩnh vực kỹ thuật
Nghề kỹ thuật rất gần với nghề thợ. Đó là nghề của các kỹ sư thuộc nhiều lĩnh vực sản xuất. nghề kỹ thuật đòi hỏi người lao động lòng say mê với công việc thiết kế và vận hành kỹ thuật, nắm chắc những tri thức khoa học hiện đại, có khả năng tiếp cận với công nghệ mới. Người làm nghề kỹ thuật phải có nhiệt tình và óc sáng tạo trong công việc. Họ còn đóng vai trò tổ chức sản xuất, do đó năng lực tổ chức có vị trí cơ bản.
►5/ Những nghề trong lĩnh vực văn học và nghệ thuật
Văn học, nghệ thuật là một lĩnh vực hoạt động đa dạng mà tính sáng tạo là một đặc trưng nổi bật. Tính không lặp lại, tính độc đáo và riêng biệt trở thành yếu tố tiên quyết trong mỗi sản phẩm thơ văn, âm nhạc, phim ảnh, biểu diễn nghệ thuật… Trong hoạt động văn học và nghệ thuật, ta thấy có rất nhiều gương mặt nhà văn, nhà thơ, nhà soạn nhạc, nhà viết kịch, nhà ảo thuật, các diễn viên điện ảnh, xiếc, ca nhạc, nhà nhiếp ảnh, nhà đạo diễn phim, người trang trí sân khấu và cửa hàng v.v… Yêu cầu chung của nghề nghiệp đối với họ là phải có cảm hứng sáng tác, sự tinh tế và nhạy bén trong cảm thụ cuộc sống, lối sống có cá tính và có văn hóa, gắn bó với cuộc sống lao động của quần chúng. Ngoài ra, người làm công tác văn học, nghệ thuật phải có năng lực diễn đạt tư tưởng và tình cảm, năng lực tác động đến người khác bằng ngôn ngữ, năng lực thâm nhập vào quần chúng.
►6/ Những nghề thuộc lĩnh vực nghiên cứu khoa học
Đó là những nghề tìm tòi, phát hiện những quy luật trong đời sống xã hội, trong thế giới tự nhiên cũng như trong tư duy con người. Người làm công tác nghiên cứu khoa học phải say mê tìm kiếm chân lý, luôn luôn học hỏi, tôn trọng sự thật, thái độ thật khách quan trước đối tượng nghiên cứu, người nghiên cứu khoa học phải rèn luyện tư duy logic, tích lũy tri thức, độc lập sáng tạo… Ngoài ra, họ còn phải là con người thực sự khiêm tốn, trung thực, bảo vệ chân lý đên cùng.
►7/ Những nghề tiếp xúc với thiên nhiên
Đó là những nghề chăn nuôi gia súc, gia cầm, thuần dưỡng súc vật, nghề trồng trọt, khai thác gỗ, trồng rừng, trồng hoa và cây cảnh… Muốn làm những nghề này, con người phải yêu thích thiên nhiên, say mê với thế giới thực vật và động vật. Mặt khác, họ phải cần cù, chịu đựng khó khăn, thích nghi với hoạt động ngoài trời, thận trọng và tỉ mỉ.
►8/ Những nghề có điều kiện lao động đặc biệt
Thuộc lĩnh vực lao động này, ta thấy có những công việc như lái máy bay thí nghiệm, du hành vũ trụ, khai thác tài nghuyên dưới đáy biển, thám hiểm… Những người làm nghề này phải có lòng quả cảm, ý chí kiên định, say mê với tính chất mạo hiểm của công việc, không ngại khó khăn, gian khổ, không ngại hi sinh, thích ứng với cuộc sống không ổn định.
d. Phân loại thông tin ngành nghề trên Hướng nghiệp Việt
Hệ thống phân loại các ngành nghề trên website Hướng nghiệp Việt dựa theo các thông tư Ban hành Danh mục giáo dục, đào tạo cấp IV trình độ đại học do Bộ giáo dục và đào tạo ban hành (Thông tư số 24/2017/TT-BGDĐT ngày 10 tháng 10 năm 2017 của Bộ trưởng Bộ Giáo dục và Đào tạo). Để thuận tiện cho việc theo dõi, Hướng nghiệp Việt lập danh mục theo lĩnh vực đào tạo, và xếp các ngành đào tạo vào cùng lĩnh vực tương ứng. Hướng nghiệp Việt bỏ qua cấu trúc trung gian là phân nhóm nhóm ngành đào tạo vì tạo ra cấu trúc tiếp cận phức tạp.
Ngành đào tạo là tập hợp những kiến thức, kỹ năng chuyên môn liên quan đến một lĩnh vực khoa học hay một lĩnh vực hoạt động nghề nghiệp nhất định. Bên cạnh khối kiến thức cơ bản và kiến thức cơ sở (của khối ngành, nhóm ngành), khối kiến thức ngành (gồm kiến thức chung và kiến thức chuyên sâu của ngành) trong mỗi chương trình đào tạo trình độ đại học phải có khối lượng tối thiểu 30 tín chỉ không trùng với kiến thức ngành của các ngành gần trong khối ngành, nhóm ngành.
Ngoài ra, Bộ Lao động thương binh và xã hội cũng đã Ban hành Danh mục ngành, nghề đào tạo cấp IV trình độ trung cấp, trình độ cao đẳng (thông tư Số: 04/2017/TT-BLĐTBXH). Tuy nhiên do kết cấu khá phức tạp, cùng với khá nhiều nghề trong danh mục chưa được mở đào tạo, vì vậy Hướng nghiệp Việt đang tiếp tục nghiên cứu để bổ sung hợp lý vào cấu trúc phân loại các ngành nghề trên website.
VI. Nguyên tắc và các bước lựa chọn ngành, chọn trường phù hợp
Nguyên tắc 1:Chỉ nên chọn nghề phù hợp với sở thích và hứng thú của bản thân.
Nguyên tắc 2: Chỉ nên chọn nghề mà bản thân có đủ điều kiện đáp ứng:
- Năng lực đáp ứng được các yêu cầu của nghề nghiệp.
- Tính cách phù hợp với tính chất của lao động của nghề nghiệp.
- Sức khoẻ phù hợp, đảm bảo với cường độ lao động và tính chất lao động.
- Điều kiện, hoàn cảnh gia đình đáp ứng được chi phí đào tạo, nuôi dưỡng nghề….
Nguyên tắc 3: Chỉ chọn ngành, chọn nghề khi đã có hiểu biết đầy đủ về ngành/nghề.
Nguyên tắc 4: Không chọn nghề mà xã hội không còn nhu cầu.
Nguyên tắc 5: Chọn nghề đáp ứng được những giá trị mà bản thân coi là quan trọng và có ý nghĩa.
VII. Các bước để lựa chọn ngành, chọn trường.
Bước 1: Liệt kê các ngành nghề bản thân yêu thích (trả lời câu hỏi “tôi thích ngành nghề gì?”)
Hãy lập danh sách ngành nghề biết và có hứng thú, yêu thích theo thứ tự ưu tiên, mỗi ngành nghề cũng cần xác định các yêu tố: công việc, cơ hội thăng tiến, môi trường làm việc, thu nhập, tính chất công việc, uy tín xã hội.
Bước 2: Tìm hiểu ngành nghề.
Từ các ngành nghề đã liệt kê theo sở thích, hứng thú hãy tìm hiểu về các nghề đó, các yêu cầu của từng ngành nghề: đầu vào, đầu ra của ngành; năng lực, tính cách, điều kiện lao động, nhu cầu xã hội. Từ đó tìm ra các điểm chung của ngành nghề và khả năng của bản thân.
Bước 3: Chọn nghề
Dựa trên danh sách đã được liệt kê hãy xác định ngành, nghề phù hợp với bản thân theo các yếu tố:
- Ngành, nghề bản thân yêu thích:
- Nội dung công việc
- Điều kiện lao động
- Giá trị và ý nghĩa đối với bản thân
- Các cơ hội phát triển
- Ngành nghề bản thân có băng lực đáp ứng
- Sức khoẻ, tính cách
- Năng lực học tập, năng lực làm việc
- Điều kiện gia đình.
Bước 4: Lựa chọn trường/hệ đào tạo
Dựa trên ngành nghề đã lựa chọn xem ngành nghề đó thuộc lĩnh vực nào và có những nơi nào đào tạo ngành nghề đó. Hiện nay hầu hết các ngành nghề đều được đào tạo từ sơ cấp tới cao đẳng, đại học do đó trước khi lựa chọn trường cần xác định hệ đào tạo phù hợp với bản thân: học nghề, trung cấp, cao đẳng, đại học. Sau khi xác định hệ đào tạo thì sẽ xác định lựa chọn trường đào tạo.
Lập danh sách các trường đào tạo theo hệ đã lựa chọn: Công lập, dân lập, điểm chuẩn, chỉ tiêu, uy tín, địa điểm, học phí, khối xét tuyển…
VIII. Bản mô tả nghề
BẢN MÔ TẢ NGHỀ
(tham khảo)
Họ tên học sinh: ………………………………………………… Lớp: ………
Mô tả nghề yêu thích của em:
- Tên nghề, lịch sử phát triển của nghề.
b. Nội dung và tính chất lao động của nghề.
Điều kiện lao động của nghề (địa điểm, môi trường lao động, phương tiện, kỹ thuật sử dụng/hỗ trợ, …)
- Những điều kiện cần thiết để tham gia lao động trong nghề.
(Văn bằng, chứng chỉ cần thiết trong hồ sơ để làm ứng viên tham gia lao động trong nghề; Những kỹ năng, kỹ xảo cần có trong chuyên môn của nghề; những kỹ năng mềm khác cần có để hỗ trợ chuyên môn nghề, …).
d. Những chống chỉ định y học:
- Những đặc điểm tâm lý và sinh lý không đảm bảo cho việc học nghề và hành nghề.
- Những bệnh, tật mà nghề không chấp nhận.
e. Những điều kiện bảo đảm cho người người lao động làm việc trong nghề.
- Tiền lương tối thiểu và thang lương trong nghề.
- Chế độ bồi dưỡng độc hại, làm ca kíp, làm việc ngoài giờ (nếu có)
- Chế độ bôi dưỡng chuyên môn nghiệp vụ để nâng cao tay nghề. Sự tiến bộ trong nghề nghiệp;
- Những phúc lợi mà người lao động được hưởng
g. Những nơi có thể theo học nghề:
- Những trường đào tạo, thời gian học, nơi học, môn thi vào nghề (nếu có)
h. Những nơi có thể làm việc sau khi học nghề:
Tên một số cơ quan xí nghiệp, doanh nghiệp; địa chỉ của các cơ sở đó.
Yêu cầu đối với học học sinh sau khi đọc tài liệu học tập về Giáo dục hướng nghiệp cho học sinh trung học phổ thông:
- Em hãy lập hai bản mô tả nghề ứng với hai nghề mà em yêu thích nhất?
- Vì chỉ được chọn một nghề, em chọn nghề nào trong hai nghề vừa mô tả? Vì sao chọn nghề đó?
- Với nghề vừa chọn, em có đủ điều kiện để thực hiện ước muốn nghề nghiệp với nghề đó không? (Nêu cụ thể những điều kiện mà mình đáp ứng được yêu cầu của nghề).
- Trên cơ sở xác định được nghề nghiệp tương lai, em hãy lập kế hoạch thực hiện ước muốn nghề nghiệp vừa chọn lựa ở trên.
------- CHÚC CÁC EM THÀNH CÔNG !--------